Nguyễn Văn Tuấn |
Hôm kia, viết entry "Phụ nữ Bắc kì thiếu vitamin D"
tôi được một độc giả nhắc nhở rằng tựa đề đó có thể gây hiểu lầm và
phản cảm. Thật ra, tôi chỉ muốn nói cho vui (chứ chẳng có ý gì), nhưng
cũng xin ghi nhận lời nhắc nhở đó. Có khi mình viết vui nhưng người khác
thì không nhìn như thế. Trong tiếng Việt, hình như Bắc kì bị hiểu là hàm ý tiêu cực hay nhạo báng (?), còn Nam kì và Trung kì thì chẳng thấy ai phàn nàn! Hôm nay, đọc bài “Tính chính trị của ngôn ngữ” của Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc, một bài rất hay, nên cũng muốn có thêm vài lời về chữ male và female, và sex với gender trong tiếng Anh.
Hai chữ mà tôi muốn nhắc đến là đàn bà và phụ nữ. Trong bài viết, có đoạn làm tôi giật mình, vì lần đầu mới biết đến:
“Để chỉ những người thuộc phái nữ, tiếng Việt có hai từ: ‘phụ nữ’
và ‘đàn bà’. Trong hai từ ấy, chữ ‘phụ nữ’ có âm hưởng lịch sự và trang
trọng hơn hẳn chữ ‘đàn bà’. ‘Phụ nữ’ là từ có tính nghi thức (formal) để
chỉ người hoặc những người mình kính trọng; “đàn bà” là từ bình dân,
được dùng trong trường hợp hoặc thân mật hoặc khinh thường. Thế nhưng,
“phụ nữ”, vốn là từ Hán Việt, trong gốc gác của nó, ở Trung Quốc, lại
không sang và không nhã như trong tâm thức người Việt: Về từ nguyên, chữ
‘nữ’ được tượng trưng bằng hình ảnh một người đang quỳ với hai bàn tay
chắp lại đầy cung kính (女); chữ ‘phụ’, chỉ đàn bà, được tượng trưng bằng hình ảnh một người nữ với cây chổi (婦), nghĩa là kẻ mà số phận bị buộc chặt vào các công việc nội trợ, chỉ quanh quẩn trong nhà, hoặc tệ hơn, trong bếp.”
Hoá ra, chữ phụ nữ có một nguồn gốc không mấy hay ho như thế!
Hồi nào đến giờ tôi vẫn dùng chữ này trong các bài báo khoa học, vì nghĩ
đó là một cách nói trang trọng dành cho phái nữ. Trong khoa học mà viết
“Vitamin D ở đàn bà Việt Nam” thì thật khó đọc quá.
Bài viết của anh đồng hương tôi, Nguyễn Hưng Quốc, còn trích dẫn một
phát hiện rất thú vị của một học giả người Mĩ, nhận xét rằng:
“Giữa nam và nữ, hầu hết các ngôn ngữ đều thiên vị phái nam. Trong
tiếng Anh, đàn ông (man) tượng trưng cho loài người nói chung (mankind /
human); trong chữ Hán, có khoảng 250 từ có chứa đựng từ tố nữ, trong
đó, ngoài những từ thuần miêu tả, còn lại hầu hết đều mang nghĩa tiêu
cực, như một cách đồng nhất phụ nữ với cái xấu: chữ “gian” (gian đối)
được tạo thành bởi hình ảnh ba người phụ nữ (姦); trong chữ “nộ” (giận dữ) cũng được tạo thành bởi hình ảnh trái tim của người phụ nữ (怒); trong chữ “đố” (妒) (ganh ghét) và chữ “yêu” (要) (yêu sách, đòi hỏi) cũng có bộ nữ bên cạnh hoặc phía dưới, v.v.”
Lại thêm một phát hiện (đối với cá nhân tôi) rất đáng biết. Đọc đoạn này tôi chợt nhớ đến ca khúc nổi tiếng với tựa đề Đàn bà của nhạc sĩ Song Ngọc. Trong bài đó, có những lời ca có thể nói là … cay cú:
Ôi đàn bà là những niềm đauhay đàn bà là ngọc ngà trăng sao Ôi đàn bà lại là con dao làm tim nhỏ máu. Ôi đàn bà dịu ngọt đêm qua Hay đàn bà lạnh lùng hôm nay Ôi đàn bà là vần thơ say Khúc nhạc chua cay. Không biết khi viết bài này, nhạc sĩ có tham khảo ý nghĩa chữ phụ nữ trong tiếng Hán? :-)
Quay lại chuyện nghiêm chỉnh trong văn phong khoa học. Trong tiếng Anh, những danh từ như male / female, gender / sex cũng có khi gây ra vài tranh cãi. Trong văn phong khoa học (tiếng Anh), male và female được dùng rất nhiều và rất phổ biến. Chúng ta hay bắt gặp những cách viết như “Among female patients” hay “In males, the relationship was ….”.
Nhưng gần đây, có người chất vấn cách dùng đó. Có lần trong một cuộc
họp ban biên tập một tập san y khoa mà tôi là thành viên, có người đặt
vấn đề là có nên dùng từ men / women thay cho males / females. Sau một hồi thảo luận, chúng tôi đồng ý là nên thay thế. Lí do là chữ male / female có
thể hiểu là giống đực giống cái, chỉ thích hợp cho thí nghiệm trên động
vật như chuột, thỏ, heo, v.v. chứ không thích hợp cho người. Để đề cập
đến người, cần phải và nên dùng danh từ men và women. Với tôi, đó là một bài học, và cũng là một kinh nghiệm.
Thế còn chữ gender và sex thì sao? Trong hồ sơ bệnh lí (tiếng Anh), chúng ta hay dùng chữ sex để chỉ giới tính của bệnh nhân, và rất ít hồ sơ bệnh lí dùng chữ gender. Sex như chúng ta hiểu là giới tính. Sau này, ở Việt Nam, người ta có khi viết ngắn hơn: giới. Còn gender thì phần lớn từ điển dịch là giống. Tôi nghĩ cách dịch đó không hẳn là chuẩn nếu hiểu đúng theo nghĩa tiếng Anh. Nhiều chuyên gia xã hội học chỉ ra rằng:
Theo cách phân biệt này thì sex là cố định, xuất phát từ tự nhiên, còn gender thì mang tính văn hoá và có ý nghĩa xã hội hơn là ý nghĩa sinh lí. Hiểu theo cách này, gender là một social construct, còn sex là một biologic construct. Nếu một người khi sinh ra có sex là nam, nhưng sau này giải phẫu thành nữ thì mô tả như sau: sex là female, nhưng gender là male. Rắc rối!
Tôi nghĩ gender có thể dịch là giới tính, còn sex là giới. Một người là nam (sex = male) nhưng có hành vi giống nữ tính qua ăn mặc chẳng hạn có thể gọi là nữ tính (gender = female).
Sẵn đây cũng xin đề cập đến một cách viết mà tôi hay thấy trong các
bài báo y khoa bên nhà. Nhiều đồng nghiệp, có lẽ theo thói quen, hay
viết như “Trong nữ, nguy cơ mắc bệnh là …”. Đây là cách viết theo Tây,
như in women, the risk of disease was … Nhưng tôi nghĩ không nên dùng chữ trong nữ, mà nên dùng chữ ở nhóm nữ. Trong nữ thì có thể bị hiểu lầm, nhưng ở nhóm nữ thì chắc khó bị hiểu lầm.
Vậy xin lưu ý các bạn nào đang viết bài báo khoa học: nếu đối tượng nghiên cứu là người, nên dùng men / women thay cho males / females. Còn dùng gender hay sex cho "phải đạo" hơn thì tuỳ thuộc vào bối cảnh.
NVT |
Bìa viết hay lắm...cảm ơn nhiều...!!!
Trả lờiXóaClick xem thêm nhé mọi người
Hay quá. thanks bồ nhiều lắm!!!!
Trả lờiXóain offset gia re tai TPHCM