Công chúng vẫn nhớ ông qua hai bài thơ đã đi vào ca khúc là Chiều và Ngập ngừng, nhưng Hồ Dzếnh không chỉ có thế. Giở lại Tuyển tập thơ văn Hồ Dzếnh tuyển chọn được NXB Hội Nhà văn in từ cuối năm 2012, tôi lại thấy cần phải viết về ông.
Cơ duyên với Thạch Lam
Các thế hệ công chúng vẫn nhớ ông qua hai bài thơ thành ca từ ca khúc: Chiều (viết năm 1940, được Dương Thiệu Tước phổ nhạc tại Sài Gòn sau hơn 30 năm), Ngập ngừng với câu đầu Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! Tôi thích tên ban đầu của Chiều là Màu cây trong khói, in báo Người Mới.
Trước đó, Hồ Dzếnh đã in tập truyện hồi ký Người chị dâu tôi (tập san Mùa gặt mới, NXB Tân Việt) được Thạch Lam để ý và nhắn Như Phong bảo Hồ Dzếnh đến báo Thời Nay
nhận thư khen - cơ duyên cho Hồ Dzếnh thăm bậc đàn anh, tại ngôi nhà
đơn sơ ven đê Yên Phụ. Số lần gặp ít ỏi, tổng thời gian chỉ vài tiếng,
Thạch Lam - bậc thầy tùy bút đã truyền cho Hồ Dzếnh tinh thần của người
sáng tạo chân chính.
Chính Thạch Lam, vào tháng ngày cuối đời, bệnh phổi không thuốc chữa trị, gầy rộc và ốm yếu, đã đọc, góp ý cho tập truyện Chân trời cũ.
Bài tựa cho tập truyện này là nét bút cuối cùng của Thạch Lam - nghệ sĩ
say mê ngôn ngữ (chữ của Hồ Dzếnh) với cõi đời. Khi người em đến nhà
đàn anh lần thứ 6, mang theo tập truyện vừa in, thì “tôi
chỉ còn thấy quang cảnh đắng ngắt, một chiếc giường nhỏ trống trơn, chị
Thạch Lam lặng lẽ bước ra, đầu vấn khăn tang, nghẹn ngào cho tôi hay,
anh đã mất được hơn một tháng”.
Thạch
Lam, Hồ Dzếnh - hai con người, sinh trưởng, vùng kí ức và miền sáng tạo
khác nhau, đều hết lòng vì văn chương, tác phẩm của họ sau bao năm vẫn
lay động người đọc. Tình cảm, nỗi xa xót luyến thương, sự mẫn cảm và
nhân ái trước bao số phận lam lũ, nhỏ nhoi thể hiện bằng rung động chữ
mãnh liệt và tinh tế.
Hồ Dzếnh cùng con trai, con dâu và cháu nội
|
Thơ không ấn tượng bằng văn xuôi
Không phải với cây bút nào, văn cũng là người, còn Hồ Dzếnh văn - đời - nghiệp - mệnh. Thơ Hồ Dzếnh trong tập Quê ngoại, Hoa xuân đất Việt (1946) không ấn tượng mạnh bằng văn xuôi.
Trong
các tác phẩm của ông, giọng tự sự trong sáng là chủ đạo, dù “đổi vai”,
dù giấu mình qua việc tả người khác. Văn liệu của ông lấy từ cuộc đời
mình, được thể hiện đầy tài hoa, kỹ lưỡng. Ông viết về đớn đau, mất mát
như cách chăm chút lại mình khi đã qua bão tố. Trận này rồi trận khác,
rút của ông sinh lực, nước mắt, mà Hồ Dzếnh không một lần than trách,
bẳn gắt, cay nghiệt.
Người
đàn ông Trung Hoa Hà Kiến Huân từ Quảng Đông sang đất Việt làm ăn, lúc
đầu bán thuốc dạo, gặp và lấy cô lái đò Đặng Thị Văn, ở bến Ghép, huyện
Quảng Xương, Thanh Hóa chăm chỉ làm ăn, mở được xưởng gỗ ở đường Hạc
Thành, châu Như Xuân.
Hai
người có 3 con trai, Hà Triệu Anh sinh năm 1916, là con út. Năm 15
tuổi, Hà Triệu Anh rời làng Đông Bích, xã Hòa Trường (nay là Quảng
Trường) lên Hà Nội học tiếp bậc Thành chung, dạy tư, làm công cho các
hiệu buôn Hoa kiều. Từ 1937, thơ, truyện ngắn của ông in trên các báo: Tiểu thuyết thứ Bảy, Trung Bắc Chủ nhật.
Những sáng tác trước 1945 là mảng chính lưu tên Hồ Dzếnh trong lòng bạn
đọc. Hồ Dzếnh là phát âm tiếng Quảng Đông từ “Hà Anh”.
Mỗi
dòng về mẹ cha, anh trai, chị dâu, chú Nhì, đứa cháu, e Dìn đều đập
mạch thiên lương hiền hậu, đặc biệt quan tâm đến thân phận phụ nữ nông
thôn. Trái tim đa cảm, nhân hậu của ông dành cho chị Yên: “ Thân hình
gầy nhẳng trái hẳn lại với sức khỏe dai dẳng của chị, bổ hết 5 tạ củi
một ngày”. Chị được mẹ tác giả mua giá 2 quan vào năm lụt lội đói ăn,
nhận làm con nuôi. Phận áo ngắn yêu nhau, người xin lấy chị Yên là anh
đỏ Phụ. Truyện ngắn Anh đỏ Phụ
(10/1941) là mối đồng cảm với tha nhân. Không ít người viết truyện thật
lại thấy giả, truyện ngắn của Hồ Dzếnh luôn cho tôi cảm giác là truyện
thật mà ông tham dự, chứng kiến trong đời. Nó được viết kỹ, dồn cảm xúc,
với phong cách với văn phong tài hoa Anh đỏ Phụ
là phận dân đen con của ông Biếm, thầy giáo làng, đã cùng cha sang ăn
hỏi chị Yên, ba năm mãn tang cha nuôi sẽ cưới, ngờ đâu, hơn hai năm thì
chị bị hại, do chính “cậu tôi cướp đoạt đời con gái”, chị Yên phải bỏ
làng ra đi. Anh đỏ Phụ đi làm thuê rồi xung làm phu đất đỏ cao su ở Tân
Thế Giới, chia tay “tôi” ở ga xe lửa thị xã, vì đau khổ mà đưa đời dân
đen vào kiếp phu phen bỏ xác xứ người. “Đêm đó, tôi mong cho con tàu
đừng đến, mong anh Phụ đổi ý trở về, nhưng chỉ là mơ ước hờ hão. Anh đỏ
Phụ đã lăn tay điểm chỉ rồi. Anh đã giúi vào tay chị gái tờ giấy bạc con
còng 5 đồng, nửa số tiền bán đời mình để gửi về phụng dưỡng bố. Tôi ôm
ghì lấy anh, khóc nức nở. Một bàn tay chắc nịch kéo ra, ấn anh Phụ và
toán phu vào trong toa sắt đen ngòm, cái toa thường ngày vẫn dùng chở
súc vật, khóa lại”.
Truyện
Hồ Dzếnh làm người đọc cay mắt, thậm chí khóc ròng, bởi ông viết bằng
ngòi bút hòa máu và nước mắt, bởi không phải hư cấu mà chính từ bi kịch
đời ông, mất nửa đời lo miếng ăn, long đong khốn đốn.
Tận cùng cay đắng
Kháng
chiến, ông về lại xứ Thanh, năm 1947 lấy bà Nguyễn Thị Huyền Nhân. Năm
1950, khi con trai mới bốn tháng tuổi, buổi sáng Tết Đoan Ngọ (5/5 AL),
bà Huyền Nhân khi đó 20 tuổi, chỉ vì ăn bát chè đỗ đen phơi sương qua
đêm và miếng dưa hấu buổi sáng, chiều phát bệnh tả không có thuốc, qua
đời.
Vợ
chết, con khát sữa khóc ngằn ngặt, Hồ Dzếnh gầy lả nuốt nước mắt đi
tìm mua quan tài, về chỉ kịp vùi vợ xuống nghĩa trang cùng hai phu
khiêng, không bia mộ. Ông đưa con đi “bú thép” (bú nhờ) khắp khu Tư,
cảnh mà Vũ Bằng đã thấy và ghi lại. Ông chạy xuống cầu Bố về Hà Nội thì
không còn thân thích, lại cõng con vào Sài Gòn, ở đó có anh ruột Hồ
Triệu Bích, mở tiệm xe đạp ở đường Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu).
Năm
1954, ông về Hà Nội lấy bà Nguyễn Thị Hồng Nhật (cùng tuổi, góa chồng,
có một con trai riêng) và sống ở tầng trệt nhà 26B phố Huế, sau bị đẩy
lên gác. Năm 1978, gia đình ông chuyển sang nhà 80 Hàng Mã - nơi ông mất
năm 1991, do xuất huyết dạ dày, viêm thận. Bà từng có thai nhưng bị
chết lưu, phải cắt dạ con, nên họ không có con chung. Người con duy nhất
của ông là Hà Chính và ông Hà Chính cũng chỉ có một con duy nhất Hà
Quang (SN 1984), học đại học xong, đã đi làm định cư Hanover, Đức. Cháu
đích tôn của thi sĩ vẫn tiếp phận tha hương, dù sướng hơn ông nội nhiều
lần.
Hà
thành, chốn làm sáng tên ông, những sáng tác thời sung sức. Hà thành
không quên ông, 1 trong 165 người sáng lập Hội Nhà văn VN tháng 4/1957,
nơi bàn tay cầm bút từng phải làm thợ đúc thép, thợ cơ khí nhà máy xe
lửa Gia Lâm, ăn lương công nhật hơn 10 năm rồi nghỉ, không có bảo hiểm,
lương hưu. Nổi nênh, thua thiệt và cay cực chỉ vì định kiến vô lý về
chuyện ông vào Nam tìm anh trai nương tựa, khiến Hồ Dzếnh chịu trớ trêu
oan uổng, bị “bỏ quên” suốt thời gian dài, ông vẫn nén chịu như đã quen
thế, để yêu thương, để khiêm nhường và hy vọng. Nhiều tác phẩm của ông
in trong tuyển tập không ghi rõ năm sáng tác, hơi khó khi định giá từng
chặng viết. Song hình như điều ấy không quan trọng nữa, tác phẩm của ông
đạt độ “phi thời gian” rồi.
Tôi đã khóc rất lâu khi trong đêm đọc Cuốn sách không tên.
Ông hóa thân vào con trai, viết lại sự tủi nhục khi con mất mẹ; người
chồng kiệt sức, kiệt tiền, gặp mụ bán quan tài nanh ác, chỉ chờ thời cơ
“chặt chém” không thương tiếc. Ông đành dùng mẹo lừa lấy được cái quan
tài về chôn vợ ban đêm, vợ đã chết từ chiều, nằm giúi vào bụi cây vì nhà
thương thiếu phòng để xác:
“Mẹ
tôi nằm ở đó, lãnh đạm trước cuộc oanh tạc, giống một cây củi khô.
Chiếc quần đen mỏng rách, áo cánh vận từ hôm bị ốm. Để người chết đỡ
tủi, cha tôi cởi chiếc áo cánh ướt trên người, đắp lên người vợ. Cha tôi
nghẹn ngào không khóc được. Quan tài ngắn, người chết buộc phải nhét
chặt, chân hơi vồng lên, tóc lòi ra ngoài. Rồi vài ngày sẽ bị bật nắp
ván”. Ngôi mộ vùi sơ sài, không có bia đã bị thất lạc, Hồ Dzếnh không
tìm được. Con ông, năm 2002 đã cố công tìm, song tất cả bị san phẳng như
ngôi mộ đứa con đầu lòng của Hồ Dzếnh mất hơn 1 tuổi - Hà Xuân Nhuệ
chôn ở cánh đồng làng.
Hồ
Dzếnh đã viết tận cùng cay đắng, vượt qua mức tả thuật đơn thuần, khiến
tôi liên tưởng đến một “Victor Hugo Việt Nam” - nhà văn của những người
cùng khổ.
Ông
đã đến tận cùng, mà hơn 70 năm trước và ngay giờ đây, vẫn còn sống bằng
quan niệm “Cái đẹp nằm trong sự lơ lửng”: “Tình mất vui lúc đã vẹn câu
thề/ Đời chỉ đẹp khi còn dang dở”.
Vi Thùy Linh
Thể thao & Văn hóa
Thể thao & Văn hóa